Triết lý giáo dục của chương trình Kỹ thuật Hóa học được nêu rõ và truyền đạt đến tất cả các bên liên quan. Nó được phản ánh trong các hoạt động giảng dạy và học tập.
Triết lý giáo dục của ĐHQT được trình bày và truyền đạt tốt đến tất cả các bên liên quan. Triết lý giáo dục được công bố vào năm 2018 và được sửa đổi thành phiên bản hiện tại vào năm 2022: “Toàn diện – Khai phóng – Tiên phong – Hội nhập“.
Toàn diện: đào tạo đa ngành và đào tạo con người toàn diện (trí tuệ, thể chất, đạo đức, cảm xúc, kiến thức chuyên môn lẫn kỹ năng mềm, kiến thức chuyên ngành trên kiến thức nền rộng).
Khai phóng: giáo dục chú trọng giải thoát tư duy, hành vi và lối mòn để tiếp cận nhanh chóng với tinh hoa thế giới. Giáo dục hướng đến việc phát huy tối đa tiềm năng của mỗi sinh viên và trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng cần thiết, sẵn sàng cho một thế giới phức tạp, đa dạng và thay đổi không ngừng. Người học được khuyến khích tư duy tự do và độc lập, đi kèm với ý thức trách nhiệm về bản thân và cộng đồng.
Tiên phong: kiến tạo tri thức, đón đầu và áp dụng các xu hướng đào tạo và nghiên cứu mới trên thế giới.
Hội nhập: hướng tới xây dựng nhà trường thành cộng đồng học thuật mang tính quốc tế, góp phần vào định hướng hội nhập quốc tế của Việt Nam và vào sự phát triển chung của thế giới.
Triết lý giáo dục của chương trình KTHH được kế thừa từ triết lý giáo dục của ĐHQT. Triết lý giáo dục này đã được thảo luận và chia sẻ giữa các thành viên trong khoa của chúng tôi trong các cuộc họp khoa để cải thiện việc giảng dạy của họ, và giữa giảng viên và sinh viên. Triết lý giáo dục cũng được truyền bá đến sinh viên mới vào ngày định hướng, nhân viên và các bên liên quan thông qua trang web của trường, sổ tay sinh viên và các cuộc họp của các bên liên quan. Các giảng viên của KTHH, cùng với các giảng viên của ĐHQT, đã được đào tạo về phương pháp giảng dạy để đưa triết lý giáo dục này vào tất cả các hoạt động giảng dạy của họ. Trong tuần định hướng và khi bắt đầu các khóa học, sinh viên được giới thiệu về các phương pháp học tập dựa trên triết lý giáo dục này. Trước khi giảng dạy các khái niệm kỹ thuật một cách chi tiết, các giảng viên trình bày giáo trình, thảo luận về nội dung khóa học, sách giáo khoa, kết quả học tập, sơ đồ chấm điểm, mối liên hệ của chúng với các khóa học trước đó để chuẩn bị cho sinh viên kiến thức cơ bản và tác động của chúng trong cả tình huống học thuật và thực tế, và do đó thúc đẩy sinh viên học các khóa học mới.
Chương trình KTHH đã sử dụng các phương pháp giảng dạy và học tập lấy sinh viên làm trung tâm, bao gồm: khuyến khích và phát triển việc học tập tích cực và tính phù hợp đa ngành; phát triển khả năng tự học và khả năng học tập suốt đời; tích hợp lý thuyết và thực hành. Do đó, tất cả các hoạt động giảng dạy và học tập đều hướng đến mục tiêu truyền đạt kiến thức chuyên sâu và cụ thể cho sinh viên, khuyến khích họ khám phá tác động của kiến thức đã học trong bối cảnh chung hơn trong thực hành kỹ thuật và thúc đẩy họ tự nhận thức và tự phát triển kiến thức của mình. Các hoạt động giảng dạy và học tập khác nhau đã được sử dụng trong chương trình như các hoạt động tương tác trong lớp học, thí nghiệm thực tế, bài tập nhóm/cá nhân và thuyết trình. Những điểm quan trọng làm nền tảng cho triết lý giáo dục này là sinh viên phải học cách xác định các vấn đề phát sinh trong thực hành kỹ thuật thực tế và tìm ra giải pháp tối ưu cho một vấn đề nhất định. Bên cạnh đó, sinh viên cũng có cơ hội trải nghiệm thực tế thông qua phòng thí nghiệm và các chuyến tham quan thực tế hoặc cập nhật kiến thức mới từ các diễn giả được mời thông qua các hội thảo và hội nghị.
Các hoạt động giảng dạy và học tập được sắp xếp hợp lý hướng tới việc đạt được các kết quả học tập mong đợi
Để đảm bảo rằng sinh viên có thể hoàn toàn đạt được kết quả học tập mong đợi của chương trình, mỗi khóa học được thiết kế để đáp ứng các kết quả học tập nhất định.
Phương pháp tiếp cận lấy học sinh làm trung tâm cung cấp cho học sinh các cơ hội để học theo tốc độ và sở thích của riêng mình. Các bài giảng liên tục kích thích và nuôi dưỡng “học tập chủ động và phản biện” của học sinh trong nhiều hoạt động:
Phương pháp học tập chủ động: Giảng viên đan xen giữa các câu hỏi và câu trả lời, và khuyến khích thảo luận trong lớp và nhóm. Bài tập về nhà, bài kiểm tra, bài kiểm tra giữa kỳ và bài kiểm tra cuối kỳ, báo cáo viết và thuyết trình miệng là bắt buộc trong nhiều khóa học.
Phương pháp học tập dựa trên dự ánMột số khóa học có dự án học kỳ.
Phương pháp học tập dựa trên thực hànhđược sử dụng mạnh mẽ trong chương trình. Trường có một số phòng thí nghiệm với các thiết bị được trang bị đầy đủ cho cả việc học và nghiên cứu. Sinh viên có thể dành nhiều thời gian trong phòng thí nghiệm tùy theo nhu cầu để tự học. Nhiều khóa học lý thuyết được tổ chức cùng với các buổi thực hành trong phòng thí nghiệm. Điều này giúp sinh viên trải nghiệm thực tế các mối quan tâm và thực hành lý thuyết để nâng cao kỹ năng.
Tất cả sinh viên đều phải thực hành chuyên môn và thực tập. Nhà trường sắp xếp một số chuyến đi thực tế để đảm bảo sinh viên quen thuộc với quy trình thực tế. Với mối quan hệ tốt với ngành, nhà trường đưa tất cả sinh viên năm thứ ba đến một công ty để thực tập mùa hè. Trong thời gian thực tập, sinh viên được các kỹ sư giàu kinh nghiệm đào tạo bài bản, do đó kiến thức làm việc và kỹ năng thực tế của họ được cải thiện đáng kể.
Phương pháp học tập dựa trên nghiên cứuđược áp dụng để cho phép sinh viên thực hiện một cuộc điều tra ngắn trong một khóa học. Trong các cuộc điều tra này, trước tiên sinh viên được yêu cầu nêu một vấn đề. Ở bước tiếp theo, cuộc điều tra này có thể được hoàn thành ở cấp độ xem xét tài liệu nhưng cũng ở cấp độ tiến hành thí nghiệm, thu thập dữ liệu, diễn giải và cố gắng tìm hoặc đề xuất giải pháp. Phương pháp này cho phép sinh viên cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề bằng cách giải quyết các vấn đề thực tế, thực hành kỹ năng viết và trình bày, và phân tích dữ liệu. Các phương pháp này được áp dụng sâu sắc cho luận văn tốt nghiệp.
Bên cạnh đó, ĐHQT có tầm nhìn trở thành một trong những trường đại học định hướng nghiên cứu hàng đầu. Để khuyến khích sinh viên nghiên cứu, trường cung cấp cho sinh viên các khoản tài trợ nghiên cứu để thực hiện các dự án nghiên cứu của riêng mình dưới sự giám sát của một giảng viên trong trường.
Hội thảo và hội nghị:Trong khuôn khổ khóa học hoặc hoạt động nghiên cứu, sinh viên sẽ có cơ hội tham gia các hội thảo hoặc hội nghị, nơi họ có thể tiếp xúc với các chuyên gia với tư cách là diễn giả được mời. Các hoạt động này giúp sinh viên cập nhật kiến thức và nhận ra tầm quan trọng của việc học tập suốt đời và thúc đẩy họ tạo ra kiến thức mới, thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo.
Kỹ năng tiếng Anh(đọc, nói, nghe, viết) được tích hợp vào chương trình giảng dạy.
Thực hành các kỹ năng mềmchẳng hạn như làm việc nhóm, thuyết trình và giao tiếp bằng văn bản, giải quyết vấn đề là những kỹ năng cần thiết trong nhiều khóa học thông qua bài tập, bài tập trong phòng thí nghiệm và báo cáo phòng thí nghiệm.
Đảm bảo chất lượng trong hoạt động dạy và học
Học sinh không chỉ được học từ giảng viên mà còn được học từ các học sinh lớp trên thông qua nhiều buổi học kèm tự nguyện do trường và hội thanh thiếu niên tổ chức.
Các hoạt động giảng dạy và học tập này được triển khai hiệu quả với sự trợ giúp của các cơ sở vật chất đầy đủ do trường đại học cung cấp. Số lượng sinh viên trong mỗi lớp được giữ ở mức trung bình, khoảng 40-50 sinh viên cho bậc thấp và 20-30 sinh viên cho bậc cao. Mỗi phòng học được trang bị đầy đủ máy tính, máy chiếu và bảng trắng. Các cơ sở vật chất này cùng với hệ thống Blackboard hỗ trợ giảng viên cung cấp tài liệu học tập cho sinh viên. Các cuộc thảo luận chuyên môn giữa sinh viên và giảng viên không chỉ giới hạn trong giờ học, sinh viên được khuyến khích tìm kiếm sự trợ giúp từ giảng viên của mình bên ngoài lớp học trong giờ làm việc, qua email hoặc theo lịch hẹn.
Sinh viên không được khuyến khích học bằng cách ghi nhớ, mà bằng cách học cách học, học để biết, học để làm, học để sống, học để trở thành, học để phát triển bản thân và học để phát triển nghề nghiệp. Với mục tiêu này, Trường tổ chức các hoạt động giảng dạy đánh giá ngang hàng để cung cấp cho giáo viên cơ hội học hỏi với nhau và từ nhau bằng cách giải quyết các vấn đề thực tế và chia sẻ kinh nghiệm trong ngành. Giáo viên cũng được khuyến khích sắp xếp thời gian làm việc ngoài giờ cho một công ty tư vấn để nâng cao kinh nghiệm thực tế của họ và xây dựng mối quan hệ với ngành. Các Trường phối hợp với Trường Đại học để liên tục giúp giảng viên cải thiện chiến lược giảng dạy và học tập bằng cách tạo điều kiện cho sự tương tác giữa giảng viên và sinh viên, cung cấp cho họ phản hồi từ sinh viên. Các cuộc thảo luận chính thức và kín diễn ra sau khi Phòng Bảo đảm Chất lượng Giáo dục & Khảo thí (P. BĐCLKT) của ĐHQT đưa ra kết quả Đánh giá khóa học.
Trong và ngoài lớp học, sinh viên luôn được thúc đẩy khám phá và thảo luận bất kỳ chủ đề nào liên quan đến lĩnh vực này. Các khóa học tập trung vào sự sáng tạo, tính độc lập, làm việc nhóm, tổ chức và bí quyết. ‘Học tập hành động’, một trong những yếu tố chính để tăng cường học tập suốt đời, cũng được coi là một trong những trung tâm của các hoạt động giảng dạy và học tập của chúng tôi. Với sự hiểu biết về lý thuyết và các nguyên tắc thiết kế, sinh viên được yêu cầu triển khai một mô hình thực tế và thực hiện thử nghiệm trong phòng thí nghiệm. Để cung cấp mô hình tối ưu nhất, sinh viên phải đọc một số tài liệu có sẵn trên internet và thư viện, tự phân tích. Bằng cách áp dụng phương pháp giảng dạy dựa trên dự án/vấn đề, sinh viên học được rằng không chỉ có một giải pháp duy nhất cho vấn đề và họ phải hướng đến việc tự học để tìm ra giải pháp của mình với sự tự tin, sáng tạo và thích thú, đây là những đặc điểm quan trọng của việc học tập suốt đời.
Tóm lại, Trường chỉ giới hạn ở việc cung cấp cho cả giáo viên và học sinh cơ hội tham gia vào các hoạt động dạy và học, và tạo ra thử thách để hiểu, khám phá và hỗ trợ các chiều hướng thiết yếu mới của việc học như: học tự định hướng, học theo yêu cầu, học không chính thức và học tập hợp tác và có tổ chức. Giáo viên được hỗ trợ để trở thành một giáo viên học tập, liên tục thúc đẩy bản thân tìm hiểu những cách thức mới để tạo điều kiện cho việc dạy và học và tăng cường sự tham gia của học sinh. Đối với học sinh, các khóa học yêu cầu họ áp dụng kiến thức và kỹ năng trong bối cảnh các vấn đề đích thực, tự định hướng. Các khóa học được thiết kế bằng cách tích hợp làm việc và học tập, học sinh có thể học
trong bối cảnh công việc của họ về các vấn đề thực tế với sự tự tin, sáng tạo và thích thú.
Tóm lại, bảng dưới đây cho thấy mối tương quan giữa triết lý giáo dục đại học, ILO, hoạt động dạy và học, và phương pháp đánh giá sinh viên.
Triết lý giáo dục đại học | Phương pháp giảng dạy và học tập | ILO | Dạy và học | Đánh giá học sinh |
Toàn diện:
Cung cấp chương trình đào tạo đa ngành và toàn diện (trí tuệ, thể chất, đạo đức, cảm xúc, kỹ năng mềm, kiến thức chuyên môn và chuyên sâu cùng với nền tảng kiến thức chung rộng lớn) |
Khuyến khích và phát triển việc học tập tích cực và tính phù hợp đa ngành | ILO1
ILO2 ILO 3 ILO4 ILO5 ILO6 |
Bài tập nhóm/cá nhân;
Giảng dạy bài giảng; hoạt động tương tác |
Kiểm tra nhanh;
Bài tập về nhà; Bài thuyết trình; Báo cáo; Bài kiểm tra viết |
Khai phóng: Cung cấp nền giáo dục tập trung vào tư duy và hành vi tự do với mục đích đạt được các tiêu chuẩn tinh hoa thế giới. Phát triển tối đa tiềm năng của học sinh, trang bị cho các em kiến thức và kỹ năng cần thiết cũng như chuẩn bị cho các em bước vào một thế giới phức tạp, đa dạng và luôn thay đổi. Thúc đẩy tư duy phản biện, cùng với ý thức trách nhiệm cá nhân và xã hội. | – Tích hợp lý thuyết và thực hành
– Phát triển năng lực tự học và năng lực học tập suốt đời |
ILO1
ILO2 ILO4 ILO5 ILO6 ILO7 |
Bài tập nhóm/cá nhân; Làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm; Làm dự án;
Hoạt động tương tác giảng dạy bài giảng |
Kiểm tra nhanh;
Bài tập về nhà; Bài thuyết trình; Báo cáo; Kiểm tra kỹ năng; Bảo vệ luận văn; Bài kiểm tra viết |
Tiên phong: Tạo ra tri thức mới, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu.
Hội nhập: Xây dựng cộng đồng học thuật quốc tế, phù hợp với chiến lược hội nhập toàn cầu của Việt Nam, đóng góp vào sự phát triển chung của thế giới. |
– Sử dụng phương pháp tiếp cận lấy học sinh làm trung tâm trong giảng dạy và học tập
– Phát triển năng lực tự học và năng lực học tập suốt đời
|
ILO1
ILO2 ILO 3 ILO4 ILO5 ILO6 ILO7 |
Nghiên cứu/thí nghiệm trong phòng thí nghiệm; Tham dự hội nghị;
Giảng dạy bài giảng; hoạt động tương tác; Làm luận văn |
Kiểm tra nhanh;
Bài tập về nhà; Bài thuyết trình; Báo cáo; Bài kiểm tra viết; Kiểm tra kỹ năng; Bảo vệ luận văn |
Thường xuyên tổ chức đào tạo cho cán bộ giảng dạy về phương pháp giảng dạy, đánh giá kết quả học tập
ĐHQT đã tổ chức nhiều khóa đào tạo cho cán bộ giảng dạy về phương pháp giảng dạy. Trước khi mở mỗi khóa học, chúng tôi tiến hành khảo sát nhu cầu đào tạo của cán bộ giảng dạy. Kết quả được phân tích và xem xét chủ đề đào tạo, thời gian và tần suất đào tạo. ĐHQT đã tổ chức các lớp sư phạm cho giáo viên hàng năm kể từ năm 2016 đến năm 2019. Bên cạnh đó, ĐHQT phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức khóa đào tạo “Đổi mới trong giáo dục” cho giáo viên.
Đào tạo về đo lường kết quả học tập cũng được tiến hành thường xuyên. Chuyên gia từ Đại học West of English đã được mời tham gia chương trình đào tạo về giảng dạy và học tập cho cán bộ học thuật, bao gồm phương pháp giảng dạy, đánh giá/đo lường theo thang phân loại Bloom. Đào tạo bởi các chuyên gia khác từ Đại học Quốc gia HCM, P. BĐCLKT của ĐHQT và các trường đại học khác tại Việt Nam như Đại học Công nghệ – ĐHGQ HCM đã được tiến hành.
Sự hài lòng của sinh viên về phương pháp giảng dạy và học tập
Khảo sát đánh giá khóa học được tiến hành trong mỗi học kỳ cho mỗi khóa học. Tỷ lệ do sinh viên từ năm 2018 đến năm 2023 đưa ra đều trên 4,2 / 5,0 ngoại trừ học kỳ 1 năm học 2021-2022, cho thấy sinh viên có đánh giá tích cực (“đồng ý” và “hoàn toàn đồng ý”) đối với phương pháp giảng dạy của giảng viên Khoa Kỹ thuật Hóa học (Biểu đồ 26). Tỷ lệ thấp hơn trong học kỳ 1 năm học 2021-2022 phản ánh phương pháp giảng dạy trực tuyến không được ưa chuộng hơn phương pháp giảng dạy trực tiếp. Trên thực tế, phương pháp giảng dạy trực tuyến đã được áp dụng trong đại dịch Covid-19 tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2021, đó là thời điểm học kỳ 1 năm học 2021-2022.